- Bạn là Luật Sư, Hãy tạo hồ sơ và trả lời các câu hỏi giúp ích cho cộng đồng
- Bạn có câu hỏi hãy đăng ký tài khoản để hỏi các vụ việc đang vướng mắc.
Mời độc giả Tạo tài khoản để gửi bài, câu hỏi hoặc liên hệ lienhe@mylaw.vn
Bạn cần tư vấn điều gì?
Hãy Đăng nhập để đặt câu hỏi. Nếu chưa có tài khoản, Hãy Đăng ký để gửi câu hỏi.
Bảng xếp hạng
LS Nguyễn Văn Thắng
3.700 điểm
Dương Lê Ước An
300 điểm
Chu Bá Thực
200 điểm
Nguyễn Thị Cẩm Tú
100 điểm
Phạm Thị Nguyệt Tú
100 điểm
Vũ Gia Trưởng
0 điểm
Câu hỏi Hành chính
LS Nguyễn Văn Thắng
Khoản 7, Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
Trên thực tế, tình trạng nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng tồn tại dưới nhiều dạng thức như: sống thử trước khi kết hôn, sinh hoạt chung như một gia đình, sống chung và có con chung nhưng không đăng ký kết hôn...
Vậy, chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn có phải là hành vi phạm pháp?
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn. Điều này có nghĩa là chỉ khi hai bên nam, nữ thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã - nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thì họ mới được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Ngược lại, nếu nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn mà chỉ chung sống với nhau như vợ chồng thì họ không phải là cặp vợ chồng hợp pháp.
Điều cần chú ý nữa là nam, nữ chung sống với nhau trước ngày 3/1/1987 thì không bắt buộc phải đăng ký kết hôn. Thời kỳ hôn nhân của họ được tính từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau (ngày tổ chức lễ cưới, ngày thực sự chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng…).
Còn các trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng sau ngày 3/1/1987 thì phải đăng ký kết hôn mới được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp. Điều này cũng có nghĩa là sau ngày 3/1/1987, nếu chỉ tổ chức lễ cưới mà không đăng ký kết hôn sẽ không được coi là vợ chồng mà chỉ được xem như một trường hợp chung sống như vợ chồng.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì pháp luật không cấm việc chung sống như vợ chồng nếu không vi phạm về độ tuổi kết hôn và không thuộc các hành vi bị cấm như: đã kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chung sống như vợ chồng với người đã kết hôn...
Như vậy, việc chung sống như vợ chồng nếu không rơi vào các hành vi bị cấm được quy định tại Khoản 2, Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì không phải là hành vi vi phạm luật. Tuy nhiên, hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng sẽ không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Bởi pháp luật chỉ thừa nhận là vợ chồng khi hai bên nam, nữ đã tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền.