Bốn 'vùng cấm' khi ký hợp đồng lao động
Khoản 1 điều 50 Bộ luật Lao động quy định, hợp đồng lao động bị vô hiệu toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
- Toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động trái pháp luật;
- Người ký kết hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền;
- Công việc mà hai bên đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc bị pháp luật cấm;
- Nội dung của hợp đồng lao động hạn chế hoặc ngăn cản quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động.
Theo khoản 2 điều này, hợp đồng lao động vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng.
Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn quy định trong pháp luật về lao động, nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể đang áp dụng hoặc nội dung của hợp đồng lao động hạn chế các quyền khác của người lao động thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó bị vô hiệu.
Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu
Điều 52 Bộ luật Lao động quy định:
- Khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu từng phần thì xử lý như sau:
+ Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên được giải quyết theo thỏa ước lao động tập thể hoặc theo quy định của pháp luật;
+ Các bên tiến hành sửa đổi, bổ sung phần của hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu để phù hợp với thỏa ước lao động tập thể hoặc pháp luật về lao động.
- Khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì xử lý như sau:
+ Trong trường hợp do ký sai thẩm quyền quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 của Bộ luật này, cơ quan quản lý nhà nước về lao động hướng dẫn các bên ký lại.
+ Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động được giải quyết theo quy định của pháp luật.